Đầu thập niên 1990, nhà nước từng bước siết chặt điều kiện sử dụng xe gắn máy. Khi sử dụng xe máy, mọi người bắt buộc phải đem theo giấy phép điều khiển xe. Lúc đó hình như mới chỉ có một trung tâm sát hạch và cấp bằng ở tuốt Củ Chi.
Trong một lần đi Củ Chi để thi lấy giấy phép điều khiển xe máy, lúc còn cách trường thi khoảng vài cây số thì xe của tôi bị xẹp bánh. Đang loay hoay hoang mang đẩy bộ giữa khúc đường vắng, tôi chợt nghe có tiếng xe đạp đến gần phía sau. Giọng một người đàn ông hỏi:
– Chú cần giúp không?
– Dạ, có! – Tôi quay nhìn qua nói – Xe em bị xẹp bánh. Gần tới giờ thi lấy bằng lái rồi. Không biết làm sao cho kịp giờ.
– Chú lấy xe tui mà đi nè. Để xe chú đó tui đẩy đi vá cho. Chút xong tui chạy tới cổng trung tâm đưa cho chú.
Tôi mừng húm, không kịp suy nghĩ gì, chỉ kịp nhảy qua xe của ảnh đạp lẹ tới chỗ thi. Sau khi thi xong, dắt xe ra tới cổng thì tôi thấy ảnh đã đứng chờ ở đó. Tướng ảnh nhỏ thó, đen mun, rắn chắc.
Tôi tình cờ quen với anh Năm Bê trong tình huống như vậy. Ảnh là dân Củ Chi chính gốc, cởi mở nhưng kiệm lời, tốt bụng nhưng cộc tính. Trưa đó ảnh rủ tôi ghé qua nhà ảnh chơi, sẵn ra quán lai rai ít bò tơ nổi tiếng với đế Củ Chi thơm nức mũi. Thấy ảnh nhiệt tình quá nên tôi cũng không nỡ từ chối.
Lòng vòng theo ảnh một hồi qua các con đường quanh co, đầy bóng cây, tôi với ảnh tới một căn nhà lá nhỏ xíu. Trong nhà, vợ ảnh đang nấu cơm trưa. Vợ ảnh cũng nhỏ con như ảnh, ốm nhom và xanh xao. Có lẽ chỉ đang bị bệnh gì đó.
Thằng con ảnh tôi đoán chắc khoảng sáu bảy tuổi, đang ngồi chơi với mấy con gà trong sân. Mặt nó lem luốc, nước mũi chảy xuống miệng, nó thè lưỡi liếm. Ảnh chạy tới nhẹ nhàng ẵm nó lên, nói với tôi:
– Nó năm nay được mười hai tuổi rồi, nhưng ở nhà chứ không đi học vì bị thiểu năng.
Ảnh đi vô nhà lấy ra một chai đầy mà tôi nghĩ cái nước trắng đục bên trong là ba xị đế. Rồi ảnh quay vô nhà, nói với vợ:
– Tui với chú Tứng đây ra ngoài quán Bảy Tơ nhậu. Ở nhà mình với con cứ ăn cơm trước đi nghen.
– Dạ. Uống ít thôi nha mình.
Cách mà hai anh chị nói chuyện với nhau thật đầm ấm. Tôi cảm nhận ngay ra rằng họ rất thương nhau và họ rất yêu thằng con của mình.
Lại quanh co một hồi nữa, chúng tôi mới tới được quán Bảy Tơ. Tên là Bảy Tơ nhưng ông chủ cũng phải lục tuần. Lông ổng cũng không còn tơ chớ đừng nói tới người. Quán nằm bên cạnh sông Saigon, gió từ sông thổi lên mát rượi. Thoang thoảng ở quán lúc nào cũng có mùi cứt bò pha nhẹ với mùi tanh của phù sa từ dưới sông theo gió bay lên. Với tôi thì mùi cứt bò pha phù sa này dễ chịu hơn gấp trăm lần mùi cứt gà pha nước mũi.
Hai anh em trò chuyện một hồi hết nửa chai rượu. Anh Năm Bê bắt đầu ngà ngà. Giọng ảnh trầm lại, không lè nhè, ảnh kể:
– Năm 1970, mười lăm tuổi, tui bí mật tham gia cách mạng tại địa phương. Vì chỉ mới mười lăm tuổi nên tui không được cầm vũ khí. Tui được anh Ba Lưu cấp trên cho đi học lớp du kích vào buổi tối. Tui học hăng say lắm. Các anh giảng cho chúng tôi biết thế nào là người cách mạng yêu nước, thế nào là kẻ bán nước. Tui âm thầm vót chông và đặt ở những khu vực lính VNCH hay đi qua.
– Có ai bị sập hầm chông của anh không? – Tôi hỏi.
Giọng anh Năm Bê nhỏ lại như chỉ muốn mình tôi nghe:
– Có một lần. Bữa đó hai thằng lính rớt xuống. Hôm sau cả khu địa đạo đó bị trực thăng bắn nát, san phẳng. Mấy hôm sau má tui đi đám tang về nói, thằng Luống con cậu Tư em của má đi lính VNHC, bị sập hầm chông chết. Nó mới mười tám tuổi. Tui biết liền nó sập hầm của tui. Tui không dám nói gì. Từ bữa đó, tui không đặt chông nữa.
Gần hết chai đế, thấy ảnh cũng mệt nên tôi tính tiền, đi về. Với lại trước khi đi nhậu vợ ảnh cũng có dặn về sớm rồi.
Vì bận công việc và cũng không có đi đâu hướng Củ Chi nên khoảng hai năm sau tôi mới có dịp ghé lại thăm anh Năm Bê. Hôm đó tôi đi công tác Tây Ninh. Tôi có đem theo một ít bánh kẹo, đồ chơi và quần áo làm quà cho con ảnh.
Khi đến nơi, tôi thấy ảnh đang ngồi hút thuốc trước sân. Vừa thấy tôi, ảnh đứng dậy, chạy ra:
– Trời đất. Đi đâu lâu dữ thần vậy Tứng! Ra Bảy Tơ làm bậy xị nha.
Tôi đưa quà cho ảnh và nói:
– Em có ít bánh kẹo cho thằng cu nè anh Năm.
– Nó chết rồi. – Mắt anh bỗng đỏ hoe, mặt anh buồn rười rượi. – Hôm qua là bốn chín ngày của nó.
Tôi lặng người, cầm gói quà bước vào trong nhà, đến đặt lên bàn thờ và thắp cho thằng bé nén nhang. Chú có quà cho con đây. Mong con đầu thai vào một thân phận lành lặn nhé.
Chạy xe theo ảnh mà trong đầu tôi cứ thấp thoáng hiện ra hình ảnh thằng cu lem luốc đang chơi với mấy con gà.
Anh Năm Bê ngồi uống trầm ngâm. Ảnh không nói gì. Mắt đờ đẫn. Tôi cũng im lặng nhìn ảnh. Một hồi sau, anh mới từ từ nhả làn khói thuốc, nói như chỉ muốn mình ảnh nghe:
– Nó bị suy dinh dưỡng và tiêu chảy. Nhà không có gì đáng giá để bán lo tiền nhà thương. Vợ chồng tui ngồi nhìn con khóc vì đau đớn mà không cầm được nước mắt. Nó là đứa con duy nhứt của vợ chồng tui. Bả bị bệnh không đẻ được nữa. Tui cũng bị gan nó hành do hồi làm du kích bị nhiễm khói da cam.
Tôi chỉ biết ngồi im lặng lắng nghe. Thương anh chị và thương thằng cu quá. Tội thằng cu cứt gà quá. Đời nó chưa một lần được ăn ngon mặc đẹp. Âu cũng là một kiếp người. Kiếp khổ.
Rót một ly đầy rồi uống cạn, anh Năm Bê nhăn mặt, rít một hơi dài đỏ sáng đầu điếu thuốc. Ảnh thì thầm tiếp:
– Sau vài năm làm du kích, tui không muốn nhìn cảnh bà con chòm xóm bắn giết lẫn nhau nữa nên tui xin cấp trên cho vào thành. Tui được huấn luyện cách sử dụng lựu đạn để giết mấy vị sỹ quan VNCH.
Tính tui lỳ lợm và chân tay lanh lẹ nên mỗi lần quăng lựu đạn, tui chạy biến nhanh như sóc, không ai bắt được. Tui cũng thực hiện thành công mấy lần, được cấp trên khen thưởng và kết nạp đảng cộng sản. Tui tự hào lắm.
Một lần, vào dịp gần ngày Giáng Sinh năm 1974, tui được giao nhiệm vụ giết đại úy Huỳnh Kan. Tụi tui theo dõi và lên kế hoạch rất cẩn thận. Sáng hôm đó, Huỳnh Kan trên xe Jeep chạy tới chợ Bến Thành. Khi chiếc xe Jeep vừa đến dừng ở cổng chợ, tui lập tức rút chốt lựu đạn, quăng vào trong xe. Nhanh như sóc, tui chạy ngược lại chừng hai mươi thước và nhảy lên một chiếc Honda 67 đang nổ máy chờ sẵn. Sau tiếng nổ đanh thép, khói nồng nặc, tui thoáng thấy bóng hai nữ sinh áo dài ngã xuống, máu lan loang lỗ. Trái lựu của tui bị va vô nón sắt của một lính cận vệ, văng ra ngoài. Đúng lúc đó, hai nữ sinh vừa đến. Tụi tui phóng thẳng về hướng quận Tư.
Từ hôm đó, tui bỏ nghề quăng lựu đạn, trốn về nhà. Hình ảnh hai nữ sinh vô tội bị chết ám ảnh tui đến bây giờ. Tui ân hận lắm.
Gần hết chai rượu và anh Năm Bê cũng đã mệt. Tôi tính tiền để đi về. Dáng ảnh đi vào nhà loạng choạng, xiêu vẹo, thật tương phản với hình ảnh một thanh niên nhanh nhẹn thuở nào.
Gần Tết năm đó, có việc đi công tác Tây Ninh, tôi lại ghé thăm anh Năm Bê. Vào đến gần nhà ảnh, tôi không thấy căn nhà lá của ảnh đâu nữa. Hỏi người hàng xóm, họ nói ảnh bán nhà rồi dọn vô tuốt trong ruộng.
Lần theo sự chỉ đường của anh hàng xóm, tôi tìm đến căn chòi của anh Năm Bê. Căn chòi chỉ có một cái giường nhỏ và một cái cái bàn thờ. Trên bàn thờ là hai tấm ảnh. Tôi bất giác rùng mình.
– Anh Năm, chỉ mất rồi hả? – Tôi nghẹn giọng.
– Bả cũng đi với thằng Gà rồi. Bả bỏ tui mà đi rồi.
Giờ tôi mới biết thằng cu tên Gà. Giọng anh Năm tỉnh queo, khàn khụa, yếu ớt và đều đều như người tụng kinh:
– Thằng Gà chết để lại cho bả quá nhiều đau đớn. Bả buồn rồi sinh bệnh, nằm liệt giường. Tui phải bán miếng đất ngoài đó để lo tiền chạy chữa cho bả. Nhưng không đủ. Giờ hai má con cũng yên giấc ngàn thu gần bên nhau. Có một điều vẫn làm tui day dứt mãi. Lúc mới cưới, bả nói, “Khi nào tụi mình có tiền, mình đưa em đi Vũng Tàu chơi một bữa nghen. Em chưa biết biển lần nào.” Bả chưa nếm vị mặn của biển lần nào. Nhưng vị mặn cuộc đời thì cứ bám theo bả miết.
Giờ đây, tui không còn gì để đáng sống nữa. Tui tin là có cái nghiệp. Tui đã gieo nghiệp chướng. Giờ tui trả. Trả xong thì tui đi. Chú Tứng tin có nghiệp không?
Tôi im lặng gật đầu. Tôi đứng lên, bước ra cửa đi về mà không một lời chào anh Năm. Ảnh ngồi đó, im lìm, bất động.
Sau Tết năm đó, tui ghé thăm anh Năm, tiện đem một ít tiền, do bạn bè góp lại, để giúp ảnh làm lại căn nhà. Khi đến nơi thì anh hàng xóm nói anh Năm vừa mất. Ba người bây giờ lại được sum họp. Hy vọng ở nơi nào đó, anh chị và cu Gà bớt khổ hơn. Không biết ảnh có trả hết nghiệp chướng chưa.
Còn tôi, tôi tin rằng nghiệp chướng là có.
— — —
Saigon, 27.07.2021