DÌ HAI

Dì Hai là chị họ của mẹ tôi. Hồi anh Lam con đầu của dì lên ba thì dượng Hai hy sinh ngoài chiến trường. Vài năm sau, dì Hai đẻ thằng Thé. Mặc dù nó là vai anh nhưng tôi thích gọi nó bằng thằng vì nó nhỏ hơn tôi tới gần bốn tuổi.

Chuyện cũng không có gì đáng kể lại nếu như dì Hai không đẻ thêm thằng Thé. Nhà ông bà ngoại thằng Thé thuộc tầng lớp nho nhã nhưng rất bảo thủ. Con gái được học đến đệ tứ. Con trai có người học lên tới đại học.

Chuyện dì Hai thụ bầu và đẻ thằng Thé mà không ai biết cha nó là ai là một cú sốc quá lớn đối với ông ngoại thằng Thé. Ông nhục nhã. Ông tức giận. Ông đổ bệnh. Rồi ông qua đời chỉ sau mấy tháng.

Bà ngoại thằng Thé thì từ lúc xảy ra chuyện, trở nên ít nói, ít ra ngoài và cũng ít đi thăm bà con. Mặc dù con gái bà đem nỗi nhục về gia đình nhưng bà lại rất thương con. Bà cũng thương anh Lam nhiều hơn thằng Thé. Tôi không biết tại sao.

Nghe đồn, trước khi lấy chồng, dì Hai có một mối nặng tình sâu với một người ở xã bên. Dì lấy chồng vì gia đình ép. Nhưng do phận làm con nên dì đành giấu nước mắt vu quy. Sau khi sinh anh Lam, cuộc sống của dì nhàn nhạt ngày ngày trôi qua và hình như dì cũng cố quên đi mối tình trước đây.

Từ khi ông ngoại thằng Thé mất, kinh tế gia đình nó sa sút nhanh chóng. Dì Hai phải đi làm quần quật cả ngày để nuôi cả nhà bốn khẩu. Anh Lam được bà ngọai và mẹ nuông chiều nên tánh càng ngày càng kỳ. Thằng Thé ít được mẹ chăm sóc. Nó hình như cũng nhận biết được thân phận nên chỉ lầm lỳ ít nói. Đến bữa ăn nó thường bị anh Lam giành hết miếng thịt, con cá. Nó hổng nói gì mà chỉ im lặng rớm nước mắt chịu đựng. Có hôm đói quá nó ngủ không được, rón rén bò dậy lục cơm nguội ăn với nước lọc.

Chiều chiều không đi học, thằng Thé hay xách câu ra sông câu cá. Nhiều hôm lũ trẻ trong xóm tôi rủ nhau ra sông bơi đùa. Thằng Thé bơi lặn như rái cá. Nó thích leo lên cây rồi nhảy tùm xuống sông. Anh Lam không biết bơi nên chỉ đứng nhìn thèm thuồng.

Một hôm, do bị chúng tôi khích, anh Lam lột áo nhảy ào xuống sông. Anh chới với trôi theo dòng nước chảy mạnh. Thằng Thé đang trên cành cây lao thẳng xuống như con chim bói cá. Nó túm lấy anh Lam. Nó cố hết sức đẩy anh Lam ngoi lên mặt nước. Càng đẩy thì nó càng bị anh Lam đè xuống. Vật lộn một hồi, nó đưa được anh Lam vào gần bờ. Anh Lam may mắn túm được một nhánh cây bần, nhưng thằng Thé đã đuối sức. Thằng Thé buông tay, trôi theo dòng nước.

Dì Hai nghe chúng tôi hô hoán chạy ra. Dì hốt hoảng chạy dọc bờ sông. Dì gào khóc nức nở. Thé ơi! Con ơi! Đừng bỏ má con ơi! Má thương con lắm Thé ơi!

Dì chạy miết, chạy miết đến lả người. Dì nằm xuống bên bờ sông và ngất đi. Màn đêm từ từ đắp lên tấm thân gầy gò của dì một lớp sương ướt át.

Trong cơn chiêm bao mộng mị, dì mơ thấy thằng Thé hớn hở cầm cái rọ đầy cá chạy vào sân. Má, má ơi, nay con câu được nhiều cá nè. Tối nay má cho con ăn cơm với cá nghen má!
Dì Hai chạy ra sân ôm chầm lấy thằng Thé như sợ nó biến mất. Nước mắt dì tuôn trào. Ừ, tối nay má kho cá thiệt ngon cho con ăn.

Đến gần sáng, dì giật mình tỉnh dậy. Có gì đó cảm giác âm ấm đang lay lay tay dì.
Má, má…
Thằng Thé đang ngồi bên cạnh dì…

Saigon, 23/06/2021

Xem phần 2

Xem Facebook

BÁC TÔI

Bác tôi là một sỹ quan quân lực VNCH. Ông cao lớn, phong độ. Ông có một gia đình hạnh phúc với đứa con trai học giỏi.

Biến cố tháng 4-1975 đặt dấu chấm hết đối với con đường binh nghiệp của ông nhưng lại mở ra một con đường khác. Đó là con đường đi đến trại cải tạo ở tận rừng sâu núi thẳm.

Anh họ tôi đẹp trai, tính tình trầm lắng. Anh học giỏi và còn có chút máu văn nghệ.

Nhà chị gần nhà tôi. Chị đẹp thùy mị. Trai làng trên xóm dưới đêm nào cũng lân la đầu ngõ. Anh tôi cũng có trong đám thanh niên đó. Họ thường ngồi ở gốc cây gòn gần nhà chị. Anh hay đàn hát. Chị ngồi trong nhà lắng nghe.

Một buổi hoàng hôn nọ, anh chị tình cờ gặp nhau. Bốn mắt sét đánh. Họ rủ nhau lên con đê trên đập nước để ngắm trăng. Dưới ánh trăng bàng bạc lãng mạn đó, họ say đắm, quên cả vạn vật. Anh hứng khởi cởi áo nhảy xuống tắm. Ánh trăng như những đồng tiền lấp lánh trên mặt nước. Anh gọi chị xuống nhặt trăng nhưng chị cười lắc đầu. Chị không biết bơi.

Tình yêu của họ lớn dần với những lần hẹn hò ở bờ đê. Họ cưới nhau chỉ mới được mấy hôm thì chiến tranh biên giới phía bắc xảy ra. Bọn bành trướng bá quyền Bắc Kinh xua quân xâm lược Việt Nam. Anh lên đường.

Khi giọt máu của anh bắt đầu cựa quậy trong chị thì tin dữ báo về. Anh đã hy sinh. Chị chết lặng.

Chị gào khóc suốt ngày. Chị lang thang. Lúc thì chị khóc. Lúc chị cười. Lúc thì chị nghêu ngao những bài anh hay hát.

Một hôm, cả nhà không thấy chị về ăn tối. Hàng xóm nói lúc xế tà thấy chị vừa hát vừa đi về phía con đập. Cả nhà hoảng hốt chạy đi tìm. Cả xóm thắp đuốc đi tìm chị. Không ai tìm thấy chị.

Mấy hôm sau, lúc tôi vừa lùa đàn trâu xuống con đập cho uống nước thì tôi bỗng lạnh người, bàng hoàng. Tôi phóng như ma rượt, chạy về nhà chị báo tin.

Lúc đó tôi còn quá nhỏ để thấu hiểu sự tình. Nhưng tôi biết chắc rằng, chị xuống nhặt trăng và đã gặp lại anh!

Thời gian ở làng quê cứ lặng lẽ trôi qua. Bác tôi được mãn hạn. Hôm về nhà, linh tính người cha mách bảo, ông đi thẳng đến bàn thờ và nhìn lên. Ông sụp đổ.

Từ một người lính cường tráng, sau hơn mười năm ở chốn thâm sơn nước độc, ông trở thành một ông già ốm yếu, bạc phơ. Ít tháng sau, ông ra đi.

Lúc đó tôi còn quá nhỏ để thấu hiểu sự tình. Nhưng tôi biết chắc rằng, bác tôi ra đi gặp con trai và rằng ông không còn đau khổ nữa!

Saigon, 18/06/2021

Xem Facebook

GIÓ LÀO

Quê tôi, Cùa, là một thung lũng miền trung du, được bao bọc bởi trùng trùng điệp điệp núi non kỳ vĩ. Vùng đất này trù phú với nhiều loại cây trái rất ngon, như mít, chuối, mãng cầu, bơ, lekima, dâu, tiêu, chè, cà phê… Ở đây có những cánh đồng lúa dọc theo những con suối nhỏ nước trong vắt, mát lạnh.

Thung lũng này vào năm 1885 cũng là nơi vua Hàm Nghi và ông Tôn Thất Thuyết lập sơn phòng Tân Sở và ra Chiếu Cần Vương, chống Pháp. Đó cũng là lý do tại sao nơi đây vẫn còn rất nhiều gia đình là hậu duệ của những người yêu nước, theo vua Hàm Nghi.

Mùa hè đỏ lửa năm 1972, bom đạn đan nhau trên trời như lưới và rơi xuống như mưa. Mùa hè ở Quảng Trị nắng nóng như thiêu đốt. Những cơn gió Lào quét qua đây càng làm cho cái nóng tựa lửa ở đại lộ kinh hoàng trở nên khủng khiếp hơn.

Gia đình tôi, gia đình ngoại tôi và nhiều gia đình trong vùng này phải bỏ nhà đi lánh nạn. Hàng ngàn hàng ngàn người lũ lượt chạy về phía nam, gương mặt hoảng loạn, mệt mỏi, đau đớn. Lúc đó, mọi người gọi là “chạy giặc”. Tôi không biết ai là giặc mà đã khiến cho hàng ngàn gia đình phải bỏ nhà bỏ quê chạy tứ tán.

Ông ngoại tôi đạp xe chở đồ đạc đi trước. Cha tôi vác tôi trên vai, còn mẹ tôi nắm lấy lưng áo cha tôi. Gia đình ngoại tôi người thì bồng bế, người thì gồng gánh. Trong cái khói bụi mù mịt, mọi người cứ thế chạy dưới nắng nóng cháy da và tiếng bom đạn nổ rền khắp nơi.

Chuyện sống chết chỉ còn phó thác cho số phận. Bom cứ rơi, đạn cứ nổ. Người cứ chạy. Người chết, người bị thương, người la hét, người gào khóc, đau đớn. Có người gục xuống vì bom đạn, không còn vẹn nguyên. Có người gục xuống vì quá tuyệt vọng. Có người gục xuống vì đói khát, mệt lả.

Chạy được nửa ngày, chúng tôi bỗng nhìn thấy chiếc xe đạp của ông ngoại trong đống đổ nát bên vệ đường. Chiếc xe méo mó. Chúng tôi không thấy ông ngoại đâu cả. Chúng tôi không thể dừng lại để tìm. Chúng tôi phải tiếp tục chạy.

Ông ngoại tôi là một trí thức. Một mình ông đi làm nuôi cả gia đình chín người. Bà ngoại chỉ làm nông và chăm sóc vườn tược. Hôm đó là ngày cuối cùng chúng tôi gặp ông ngoại.

Chiến tranh thật sự quá tàn khốc. Không biết người ta bắn giết nhau để làm gì? Không biết người ta tìm kiếm điều gì khi gây ra những cái chết khổ đau và vô tội?

Mong rằng nước Việt sẽ không còn cuộc chiến nào nữa. Hy vọng nghiệp chướng của người Việt sẽ mau qua đi và không bao giờ trở lại!

Saigon, 20/06/2021

Xem Facebook